Hoá học Vàng

Dù vàng là một kim loại quý, nó hình thành nhiều hợp chất. Số oxi hóa của vàng trong các hợp chất của nó thay đổi từ −1 đến +5, nhưng Au(I) và Au(III) chi phối tính chất hóa học của nó. Au(I), thường được gọi là ion aurơ, là trạng thái ôxi hoá phổ biến nhất với các phối tử mềm như các thioether, thiolat, và phosphin ba. Các hợp chất Au(I) thường có đặc trưng tuyến tính. Một ví dụ điển hình là Au(CN)2−, là hình thức hoà tan của vàng trong khai mỏ. Đáng ngạc nhiên, các phức chất với nước khá hiếm. Các vàng halogen nhị phân, như AuCl, tạo nên các chuỗi polyme zíc zắc, một lần nữa thể hiện phối trí tuyến tính tại Au. Đa số thuốc dựa trên vàng là các dẫn xuất Au(I).[53]

Au(III) (auric) là một trạng thái ôxi hoá phổ biến và được thể hiện bởi vàng(III) clorua, Au2Cl6. Các trung tâm nguyên tử vàng trong các phức chất Au(III), giống như các hợp chất d8 khác, nói chung là phẳng vuông, với các liên kết hóa học có các đặc trưng cả cộng hóa trị lẫn ion.

Aqua regia, một hỗn hợp 1:3 gồm axit nitricaxit clohydric, hoà tan vàng. Axit nitric ôxi hoá vàng kim loại thành các ion +3, nhưng chỉ với những khối lượng nhỏ, thường không thể phát hiện trong axit tinh khiết bởi trạng thái cân bằng hoá học của phản ứng. Tuy nhiên, các ion bị loại bỏ khỏi trạng thái cân bằng bởi axit clohydric, hình thành các ion AuCl4−, hay axit cloroauric, vì thế cho phép sự tiếp tục ôxi hoá.

Một số halogen tự do phản ứng với vàng.[54] Vàng cũng phản ứng với các dung dịch kiềm của kali xyanua. Với thuỷ ngân, nó hình thành một hỗn hống.

Các trạng thái ôxi hoá ít phổ biến khác

Các trạng thái ôxi hoá ít phổ biến của vàng gồm −1, +2 và +5.

Trạng thái ôxi hoá −1 xảy ra trong các hợp chất có chứa anion Au−, được gọi là aurua. Ví dụ, xêzi aurua (CsAu), kết tinh theo kiểu xêzi clorua.[55] Các aurua khác gồm các aurua của Rb+, K+, và tetramethylammoni (CH3)4N+.[56]

Các hợp chất vàng(II) thường nghịch từ với các liên kết Au–Au như [Au(CH2)2P(C6H5)2]2Cl2. Sự bay hơi của một dung dịch Au(OH)3 trong H2SO4 cô đặc tạo ra các tinh thể đỏ của vàng(II) sulfat, AuSO4. Ban đầu được cho là một hợp chất có hoá trị hỗn hợp, nó đã được chứng minh có chứa một số cation Au4+2.[57][58] Một phức chất vàng(II) đáng chú ý, và chính thống là cation tetraxenon vàng(II), có chứa xenon như một phối tử, được tìm thấy trong [AuXe4](Sb2F11)2.[59]

Vàng pentaflorua và anion dẫn xuất của nó, AuF−6, là ví dụ duy nhất về vàng(V), trạng thái ôxi hoá cao nhất được kiểm tra.[60]

Một số hợp chất vàng thể hiện liên kết ái vàng, miêu tả khuynh hướng của các ion vàng phản ứng ở các khoảng cách quá xa để là một liên kết Au–Au thông thường nhưng ngắn hơn khoảng cách liên kết van der Waals. Tương tác được ước tính có thể so sánh về độ mạnh với liên kết hydro.

Các hợp chất hoá trị hỗn hợp

Các hợp chất cụm được định nghĩa rõ có rất nhiều.[56] Trong những trường hợp đó, vàng có một trạng thái ôxi hoá phân đoạn. Một ví dụ đại diện là loại tám mặt {Au(P(C6H5)3)}62+. Các hợp chất vàng chalcogenua, như vàng sulfua, có đặc trưng là có các lượng tương đương của Au(I) và Au(III).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vàng http://health.ninemsn.com.au/article.aspx?id=69436... http://www.abc.net.au/science/news/enviro/EnviroRe... http://chemistry.about.com/cs/inorganic/a/aa032503... http://www.ameinfo.com/75511.html http://arizonagoldprospectors.com/formation.htm http://besthealth.bmj.com/btuk/conditions/14212.ht... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/237258 http://goldnews.bullionvault.com/gold_mine_product... http://www.cnbc.com/id/101422278#. http://www.commodityonline.com/news/Gold-Why-China...